

Ngài sanh năm 1675, mất năm 1725.
Lăng Đức Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế (Trường Thanh) ở
tại làng Kim Ngọc, lăng của Đức Bà (Vĩnh Thanh) ở làng Trúc Lâm, hai lăng này đều
thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài và Bà đều thờ tại Thái Miếu, Tả Tam Án.
Hệ Bảy hiện có 27 Phòng, nam được 1420 người. (Năm
1943)
Mỗi Phòng đều có nhà thờ riêng và đều ở tỉnh Thừa
Thiên, trong các huyện Phú Lộc, Hương Trà, Hương Thuỷ. Ở Tôn Thất xã, tổng An
Nông, có nhà thờ Ngài Hoàng Nhị Tử; cùng trong tổng ấy, ở làng Xuân Lai có nhà
thờ Ngài Hoàng Nhị Thập Nhứt Tử. Nhà thờ Ngài Hoàng Thập Ngũ Tử, Ngài Hoàng Tam
Thập Tử ở làng Vinh Hoà, Ngài Hoàng Tam Thập Tam Tử ở làng Phú An cũng đều tại
tổng Diêm Trường.
Các Ngài Hoàng Tứ Tử, Ngũ Tử, Thập Nhị, Thập Lục, Nhị
Thập Ngũ, Nhị Thập Lục Tử đều thờ tại làng An Cựu, tổng An Cựu, Ngài Hoàng Cửu
Tử có nhà thờ tại làng Lương Quán, tổng Cư Chánh; Ngài Hoàng Nhị Thập Tử nhà thờ
tại làng Bảng Lãng, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ.
Ở huyện Hương Trà thì có các nhà thờ các Ngài: Hoàng
Thập Tử, Hoàng Thập Thất, Hoàng Thập Bát, Nhị Thập Nhị, Nhị Thập Thất, Tam Thập
Nhị, Tam Thập Thất Tử đều tại làng Phú Xuân, tổng Phú Xuân, các Ngài Hoàng Thất
Tử, Hoàng Thập Thất Nhứt Tử nhà thờ ở làng Định Môn, tổng Long Hồ; Ngài Hoàng
Bát Tử nhà thờ ở làng Hương Cần, tổng Hương Cần; Ngài Hoàng Thập Tam Tử nhà thờ
ở làng Vạn Xuân, tổng An Ninh; Ngài Hoàng Thập Cửu Tử nhà thờ ở làng La Chử, tổng
Long Hồ; nhà thờ Ngài Hoàng Nhị Thập Tam Tử ở làng An Vân và nhà thờ Ngài Hoàng
Nhị Thập Cửu Tử ở làng Long Hồ cũng trong tổng An Ninh.
(Trích Hoàng Tộc Lược Biên)
Chúa Nguyễn Phúc Chu là con
trưởng của Chúa Nghĩa, khi lên kế nghiệp Chúa, Ngài mới có 16 tuổi nhưng đã có
đức tính tốt, biết chiêu hiền đãi sĩ, biết nghe lời can gián, bỏ xa hoa, nhẹ
thuế mà siêu dịch cho dân, được dân chúng yêu quý, thường gọi Ngài là Quốc Chúa
hay Chúa Minh.
Noi gương các Tiên Chúa, Chúa
Minh đã chú trọng mở rộng bờ cõi về phương Nam đến tận Hà Tiên.
- Năm 1697 có thêm đất còn
lại của tỉnh Phan Rang và toàn tỉnh Bình Thuận (16) .
- Năm 1700 có thêm vùng Sông Bé,
La Ngà và Tánh Linh.
- Năm 1708 có thêm đất Hà
Tiên do Mạc Cửu dâng (Chúa đặt thành trấn Hà Tiên và giao lại Mạc Cửu trấn
giữ) (17).
Ngài đã cử sứ bộ sang tàu
cầu phong, vua Thanh chưa chấp nhận, vì cho là còn Vua Lê mặc dù họ Nguyễn có
lãnh thổ và hùng mạnh. Vì vậy, Ngài và quần thần tôn xưng "Quốc Chúa Đại
Việt" và đúc ấn tỷ "Đại Việt Quốc Nguyễn - Chúa Vĩnh Trấn chi
bảo", ấn tỷ này lưu truyền cho các đời sau đến triều Vua Gia Long (18). Ngài đã mở đầu cho việc xưng vương hiệu
ngay khi lên ngôi kế nghiệp Chúa và bỏ tước hiệu của Bắc Hà trên văn kiện.
Chúa Nguyễn Phúc Chu sáng lập Hệ
Bảy Tiền Biên, có 38 Công Tử và 4 Công Nữ.
(Trích Nguyễn Phước Tộc thế phả)
***
ĐỨC HIỂN TÔNG HIẾU MINH HOÀNG ĐẾ
Húy NGUYỄN PHÚC CHU
(QUỐC CHÚA)
(1675 - 1725)
Hệ VII
7.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Hiển Tông Hiếu
Minh Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Chu, con huy là Tùng, con trưởng của đức Anh
Tông Nguyễn Phúc Thái và Hoàng Hậu Tống Thị Lĩnh. Ngài sinh ngày 18 tháng 5 Ất mão
(11-6-1675).
Thuở thiếu thời rất
chăm học, chữ tốt, văn hay, võ giỏi. Ngài được phong là Tả binh đinh Phó Tướng
Tộ Trường Hầu, làm phủ đệ ở cơ Tả Binh.
Năm Tân mùi (1691) đức
Anh Tông băng, quần thần di mệnh, tôn ngài làm : "Tiết Chế Thủy Bộ chư
Dinh kiêm Tổng Nội Ngoại Binh Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Tộ Quốc
Công". Bấy giờ ngài mới 17 tuổi.Năm Quí dậu (1693), sau khi mãn tang, quần
thần tấn tôn ngài làm Thái Phó Quốc Công và dâng tôn là Quốc Chúa. Từ đấy trong
các dụ về nội trị, ngoại giao đều xưng là Quốc Chúc.
Theo gương Tiên đế,
ngài áp dụng chính sách chiều hiền đãi sĩ, cầu lời nói hay, nạp lời can
gián, bỏ xa hoa, ít chi phí, nhẹ thuế má, giao dịch, bớt việc hình ngục nên
trăm họ không ai là không mừng vui.
Tháng 8 năm Nhâm thân
(1692) vua Chiêm Thành là Bà Tranh, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ
Diên Ninh. Ngài sai Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh, bắt được Bà Tranh và bề tôi là Kế
Bà Tử cùng thân thuộc là Nàng Mi Bà Ân đem về Phú Xuân. Ngài đổi đất Chiêm
Thành thành trấn Thuận Thành. Năm Quí dậu (1693) ngài đổi trấn Thuận Thành làm
phủ Bình Thuận, cho Kế Bà Tử làm khâm lý, con của Bà Ân làm đề đốc để xếp đặt
mọi việc trong phủ hạt. Ngài buộc họ phải ăn mặc theo phong tục nước Việt.
Để ổn định phần đất mà
dân Việt khai thác ờ Chân Lạp, năm Mậu dần (1698), ngài sai Thống suất Nguyễn
Hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố thành hai huyện : lấy xứ Đồn
Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa), lấy xứ Sài Côn làm
huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (Gia Định), đất đai được mở mang rộng rãi.
Ngài cho chiêu mộ những dân phiêu bạt tứ xứ Quảng Bình vào để lập ra thôn xã và
khai khẩn ruộng đất. Còn những người Trung Hoa ở đất Trấn Biên thì lập thành xã
Thanh Hà, những người ở đất Phiên Trấn thì lập làm xã Minh Hương. Những người
này đều thuộc sổ bộ nước ta.
Năm Kỷ mão (1699), Nặc
Thu nước Chân Lạp, cho quân lính cướp bóc dân buôn. Ngài sai Nguyễn Hữu Cảnh
đem quân đánh dẹp, Nặc Thu xin đầu hàng và nộp cống như cũ.
Năm Ất mão (1705) Nặc
Thâm, con Nặc thu, nối ngôi cha bất hòa với Nặc Yêm (vua thứ hai của Chân Lạp),
nhờ Xiêm La giúp, đem binh đánh Nặc Yêm. Nặc Yêm chạy sang Gia Định cầu
cứu,ngài sai tướng Nguyễn Cửu Vân đem binh đánh tan quân Xiêm. Tuy vậy, việc
nước Chân Lạp vẫn chưa yên. Vào các năm Thân mão (1711) và Giáp ngọ (1714) Nặc
Thâm lại vây đánh Nặc Yêm. Ngài phải cho các tướng Trần Thượng Xuyên, Nguyễn
Cửu Phú đem quân đánh dẹp rồi phong Nặc Yêm làm vua Chân Lạp và giúp cho Nặc
Yêm khí giới để phòng ngự.
Về mặc Bắc, tuy đã thôi
đánh nhau với Trịnh, ngài vẫn lo phòng ngự cẩn thận. Năm Tân tỵ (1701), ngài
sai Chưởng dinh Nguyễn Phúc Diệu, cùng Tống Phúc Tài, Nguyễn Khoa Chiêm sửa
sang các chính lũy từ núi Đâu Mâu đến cửa biển Nhật Lệ. Ngài sai vẽ bản đồ
những nơi hiểm yếu và cho quân lính thao dượt thường xuyên.
Bấy giờ, biên thùy phía
Bắc đã giữ vững, về phía Nam đất đai được khẩn hoang đến trận biên giới Chân
Lạp. trong nước việc nội trị, võ bị, giáo dục được phát triển có qui mô. Thấy
Bắc Hà tuy có vua Lê nhưng quyền ở trong tay Chúa Trịnh. Ngài muốn tách riêng miền
Nam thành một nước độc lập. Ngài sai Hoàng Thần và Hưng Triệt đem quốc thư và
cống phẩm sang Trung Hoa cầu phong nhà thanh. Vua Thanh cũng có ý muốn phong
nhưng triều thần can rằng : "Nước Quảng Nam hùng trị một phương, Chiêm
Thành, Chân Lạp đều bị thôn tính, sau tất sẽ lớn. tuy nhiên nước An Nam còn có
nhà Lê ở đó, chưa có thể phong riêng được." Do đó việc cầu phong không có
kết quả.
Năm Nhâm ngọ (1702) ở
biên phía Nam có giặc biển người Anh đến cướp phá, chiếm cứ đảo Côn Lôn. Đồ
đảng hơn 200 người và 8 chiến thuyền, xây dựng sào huyệt kiên cố. Ngài sai
Chưởng dinh Trấn biên Trương Phúc Phan tìn cách trừ bọn cướp. Sau nhờ mộ được
15 người Chà Và (Mã Lai) làm kế nội ứng, đốt tan được sào huyệt của giặc, tịch
thu của cải đem về.
Năm Mậu tý (1708), Mặc
Cửu người Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, trước đó đến khai thác vùng đất Hà Tiên,
dâng thư lên triều đình xin đem đất Hà Tiên qui thuộc miền Nam. Ngài nhận lời
và phong cho Mặc Cửu làm Tổng binh trấn giữ đất Hà Tiên.
Tháng giêng năm Kỷ sửu
(1709), phò mã Tống Phúc Thiệu cùng cai đội Nguễn Cửu Khâm mưu phản, ngầm liên
kết vây cánh, mưu đồ đánh chiếm Bình Khang, Phú yên xong quay về lấy Quảng Nam
rồi thẳng đến Chính dinh phóng lửa nổi loạn. Âm mưu bị bại lộ, các người chủ
mưu đều bị giết. Tống Phúc Thiệu bị bãi làm thứ dân và bị tù ở vườn Bát Khải.
Tháng chạp năm Kỷ sửu
(1709), ngài cho đúc Quốc bảo. Ấn khắc chữ : "Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa
Vĩnh Trấn Chi Bảo", để dùng và truyền đời này sang đời khác. Thấy nước
giàu, binh mạnh ngài có ý muốn Bắc phạt. Ngài cho thám tử ra thăm dò tình hình
miền Bắc, sau được tin báo về là Bắc Hà chưa thể đánh được, ngài mới không
nhắc đến chuyện này nữa.
Trong thời gian ngài
trị, ngài đóng góp rất nhiều công lao trong việc xây dựng kỷ cương Phật Giáo,
trùng tu chùa chiền và quảng bá đạo Phật khắp nước. Năm Giáp tuất (1694) ngài
sai người sang Quảng Đông mời Hòa thượng Thích Đại Sán (tức là Thạch Liêm Hòa
Thượng) sang thuyết pháp về đạo Phật cho quan lại và dân chúng nghe. Hòa thượng
đã tổ chức giới đàn để truyền giới bồ tát cho ngài và quyến thuộc, quan lại và
1400 tăng ni ở Phú Xuân. Ngài được ban pháp danh là Hưng Long, hiệu là Thiên
Túng đạo nhân. Năm Canh dần (1710), nhân ngày Phật đản, ngài cho đúc chuông chùa
Thiên Mụ nặng 3.285 cân (2.021 kg, cao 2,5 m, đường kính 1,2 m). Ngài thân làm
bài minh khắc vào chuông. Tiếng vang của Đại hồng chung bao trùm cả kinh thành,
không những đánh tan niềm trần tục mà còn lắng đọng trong lòng mọi người. Ca
dao đả truyền tụng.
Gió đưa cành trúc la đà
Tiến chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Năm Giáp ngọ (1714) ngài giao cho Chưởng cơ Tống
Đức Đạt sửa sang chùa Thiên Mụ. Tất cả thợ khéo các nơi đều được huy động, chùa
trở nên xinh đẹp và nguy nga hơn trước.Lễ khánh thành là ngày hội của dân
chúng, những kho lúa của nhà nước được mở rộng đển chẩn cấp cho dân nghèo.
Không những mộ đạo
Phật, ngài cũng là người rất trọng đạo Nho. Lúc mới lên ngôi, ngài đã cho sửa
sang Văn Miếu ở làng Triều Sơn. Văn học và thi cử được ngài chú trọng. Ngài đã
cho tổ chức các khoa thi trong phúc Chúa. Trong các vị Chúa, ngài là người mến
chuộng thơ văn hơn cả. Ngài đã để lại nhiều tác phẩm văn chương có giá trị.
Năm Nhâm thìn (1712),
ngài cho lập phủ mới ở làng Bát Vọng huyện Quảng Điền.
Trong thời gian, có hai
chuyện mà mọi người thường nhắc nhở là ngài đã sai quan Nội tán Nguyễn Khoa
Đăng dẹp bọn cướp ở truông nhà Hồ (rừng Hồ Xá, Quảng Trị) và phá tan những ngọc
sóng thần nguy hiểm ở phá Tam Giang (1).
Ngày 21 tháng 4 Ất tỵ
(01-6-1725) ngài băng, ở ngôi 34 năm, thọ 51 tuổi.
* * *
Đức Hiển Tông Hiếu Minh
Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn thứ sáu ở miền Nam.
Trong 34 năm trị vì
ngài thực hiện được nhiều công việc quan trọng:
· Việc nội
trị, giáo dục và thi cử được phát triển có qui mô.
· Binh lực
hùng mạnh, được các lân bang nể sợ.
· Mở mang bờ
cõi đến tận biên giới Chân Lạp, lập thêm các phủ Bình Thuận và Gia Định. Chiêu
mộ những người nghèo khổ đưa đi khai khẩn những vùng đất mới, lập thành làng,
xã làm miền Nam ngày càng phồn thịnh.
· Dân
chúng được sống ấm no, hạnh phúc.
· Ngoài
ra ngài là người thông suốt kinh sử, giỏi thi văn. Bút tích của ngài còn lưu
lại nhiều nơi ở đất Thần kinh.
Ngài thuộc đời thứ bảy họ Nguyễn Phúc, khai sáng ra hệ VII hiện
nay có 27 phòng:
1. Phòng hai tức là phòng
Chưởng dinh Nguyễn Phúc Thể
2. Phòng bốn tức là phòng
Chưởng vệ Nguyễn Phúc Long
3. Phòng năm tức là phòng
Nguyễn Phúc Hải
4. Phòng tám tức là phòng Luân
Quốc công Nguyễn Phúc Tứ
5. Phòng chín tức là phòng Huấn
Vũ Hầu Nguyễn Phúc Thể
6. Phòng mười tức là phòng
Nguyễn Phúc Lân
7. Phòng mười một tức là phòng
Nguyễn Phúc Chấn
8. Phòng mười hai tức là phòng
Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền
9. Phòng mười ba tức là phòng
Chưởng dinh Nguyễn Phúc Đang
10. Phòng mười bốn tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc
Thiện
11. Phòng mười lăm tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc
Khánh
12. Phòng mười sáu tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc Cảo
13. Phòng mười bảy tức là phòng Chưởng cơ Nguyễn Phúc
Bình
14. Phòng mười tám tức là phòng Chưởng cơ Quận công
Nguyễn Phúc Tú
15. Phòng mười chín tức là phòng Chưởng vệ sự Quận công
Nguyễn Phúc Truyền
16. Phòng hai mươi tức là phòng Nguyễn Phúc San
17. Phòng hai mươi mốt tức là phòng Cai đội Nguyễn Phúc
Quân
18. Phòng hai mươi hai tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc
Luân
19. Phòng hai mươi ba tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc
Bính
20. Phòng hai mươi lăm tức là phòng Chưởng dinh Nguyễn
Phúc Nghiễm
21. Phòng hai mươi sáu tức là phòng Chưởng cơ Nguyễn
Phúc Xuân
22. Phòng hai mươi bảy tức là phòng Thành Quận công
Nguyễn Phúc Phong
23. Phòng hai mươi chín tức là phòng Chưởng cơ Nguyễn Phúc
Kỷ
24. Phòng ba mươi tức là phòng Chưởng cơ Nguyễn Phúc
Truyền
25. Phòng ba mươi hai tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc
Lộc
26. Phòng ba mươi ba tức là phòng Chưởng cơ Nguyễn Phúc
Triêm
27. Phòng ba mươi bảy tức là phòng Chưởng cơ Nguyễn
Phúc Độ
7.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY
TÔN
Ngài mất, lăng táng tại Kim Ngọc (Hương
Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Thanh. Đến đời vua Gia Long, ngài được thờ
tại Thái Miếu, án thứ ba bên tả.
Thế tử lên ngôi, dâng
thụy hiệu là : " Đô Nguyên Súy Tổng Quốc Chính Khoan Từ Nhân Thứ Tộ Minh
Vương". Đến đời Vũ Vương, ngài được truy tôn : "Anh Mô Hùng Lược
Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Vương." Vua Gia Long truy
tôn : "Anh Mô Hùng Lược thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh
Hoàng Đế." Miếu hiệu là Hiển Tông.
7.3 - GIA ĐÌNH
7.3.1. Hậu và phi
Ngoài Hoàng Hậu, ngài còn một số bà
phi. Tài liệu để kê cứu bây giờ không còn nữa. Danh tánh các vị được tìm ra từ
gia phả hoặc nhà thờ của vị Hoàng tử.
7.3.1.1 Tống Thị
Được, Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Hậu
Bà húy là Tống Thị
Được, còn có tên là Quyền, bà nguyên họ Hồ, khi nhập cung đổi qua họ Tống,
chánh quán làng Hương Cần (Hương Trà , Thừa Thiên), sinh năm Canh thân (1680).
Bà là con của quan Chưởng dinh Hồ Văn Mai.
Bà mất ngày 12 tháng 2
năm Bính thân (5-3-1716), hưởng dương 37 tuổi, được phong tặng là Minh Phi Liệt
Phu Nhân" thụy là Từ Tuệ. Lăng táng tại làng Trúc Lâm (Hương Trà, Thừa
Thiên). Vũ Vương truy tôn: "Từ Huệ cung Thục Kính Phi", sau thêm hai
chữ Ý Đức. Vua gia Long truy tôn : "Từ Huệ Cung Thục Ý Đức Kính Mục Hiếu
Minh Hoàng Hậu", đặt tên lăng là Vĩnh Thanh. bà được phối thờ với đức Hiển
Tông ở Thái Miếu, án thứ ba bên tả.
Bà sinh ra được hai
trai: con trưởng là Nguyễn Phúc Thụ, sau này là Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng Đế,
con thứ hai là Nguyễn Phúc Tứ về sau được tấn phong là Luân Quốc công.
7.3.1.2 Nguyễn Thị
Lan, Kính Phi phu nhân
Bà húy là Nguyễn Thị
Lan, con gái của Tham chính Nguyễn Hữu Hạp.
Khi tiến cung bà được
xếp vào bậc Hữu Cung tần rồi được tấn phong lên bậc Chính Nội phủ. Bà mất năm
Giáp ngọ (1714), được truy tôn làm Phu nhân, thụy là Từ Đức, táng ở làng Trúc
Lâm (Hương Trà, Thừa Thiên).
Bà là thân mẫu của Dận
Quốc công Nguyễn Phúc Điền.
7.3.1.3 Trần Thị
Nghi, Tu Dung phu nhân
Bà húy là Trần Thị
Nghi. Tiểu sử không rõ. Bà là thân mẫu của các Hoàng tử Nguyễn Phúc Thể, Nguyễn
Phúc Truyền.
7.3.1.4 Lê Thị Tuyên,
Hữu Cung tần
Bà húy là Lê Thị Tuyên.
Tiểu sử không rõ. Bà là thân mẫu của các Hoàng tử Nguyễn Phúc Long.
7.3.1.5 Tống Thị
Lượng, Hữu Cung tần
Bà húy là Tống Thị
Lượng. Tiểu sử không rõ. Bà là thân mẫu của các Hoàng nử Nguyễn Phúc Ngọc Sáng.
7.3.2.
Hoàng tử và Hoàng nữ
Theo Liệt truyện, đức Hiển Tông có cà thảy 146 người con. Nhưng
theo Hoàng tử phổ và Hoàng nữ phổ, ngài có 38 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ.
Hoàng tử
|
Hoàng nữ
|
|
|
1. Nguyễn Phúc Thụ
|
1. Nguyễn Phúc Ngọc Sáng
|
2. Nguyễn Phúc Thể
|
2. Nguyễn Phúc Ngọc Phụng
|
3. (Khuyết danh)
|
3. Nguyễn Phúc Ngọc Nhật
|
4. Nguyễn Phúc Long
|
4. (Khuyết danh)
|
5. Nguyễn Phúc Hải
|
|
6. (Khuyết danh)
|
|
7. Nguyễn Phúc Liêm
|
|
8. Nguyễn Phúc Tứ
|
|
9. Nguyễn Phúc Thể
|
|
10. Nguyễn Phúc Lân
|
|
11. Nguyễn Phúc Chấn
|
|
12.Nguyễn Phúc Điền
|
|
13. Nguyễn Phúc Đăng
|
|
14. Nguyễn Phúc Thiện
|
|
15. Nguyễn Phúc Khánh
|
|
16. Nguyễn Phúc Cảo
|
|
17. Nguyễn Phúc Bình
|
|
18. Nguyễn Phúc Tú
|
|
19. Nguyễn Phúc Truyền
|
|
20. Nguyễn Phúc Sang
|
|
21. Nguyễn Phúc Quận
|
|
22. Nguyễn PhúcLuân
|
|
23. Nguyễn Phúc Bính
|
|
24. Nguyễn Phúc Tông
|
|
25. Nguyễn Phúc Nghiễm
|
|
26. Nguyễn Phúc Xuân
|
|
27. Nguyễn Phúc Phong
|
|
28. Nguyễn Phúc Hạo
|
|
29. Nguyễn Phúc Kỷ
|
|
30. Nguyễn Phúc Tuyền
|
|
31. Nguyễn Phúc Hanh
|
|
32. Nguyễn Phúc Lộc
|
|
33. Nguyễn Phúc Triêm
|
|
34. Nguyễn Phúc Khiêm
|
|
35. (Khuyết danh)
|
|
36. (Khuyết danh)
|
|
37. Nguyễn Phúc Độ
|
|
38. Nguyễn Phúc Tài
|
|
7.3.3 Anh chị
em
7 5.3.3.2A.
Nguyễn Phúc Tuân
Ông húy là Nguyễn Phúc Tuân, con thứ hai của đức Anh Tông. Tiểu sử không rõ.
Ông mất sớm. Vô tự.
7 5.3.3.3A.
Nguyễn Phúc Toàn
Ông húy là Nguyễn Phúc Toàn, con thứ ba của đức Anh Tông. Tiểu sử không rõ. Ông
mất sớm. Vô tự.
7 5.3.3.4A.
Nguyễn Phúc Trinh
Ông húy là Nguyễn Phúc Trinh, con thứ tư của đức Anh Tông. Tiểu sử không rõ.
Ông làm quan đến chức Ngoại tả Chưởng dinh. Năm mất không rõ. Vô tự.
7 5.3.3.5A.
Nguyễn Phúc Quảng
Ông húy là Nguyễn Phúc Quảng, con thứ năm của đức Anh Tông. Tiểu sử không rõ.
Ông mất sớm. Vô tự.
7 5.3.3.1B.
(Khuyết danh)
Bà là trưởng nữ của đức Anh Tông. Tiểu sử không rõ. Bà hạ giá lấy ông Tín Quận
công (không biết rõ họ).
7 5.3.3.2B.
(Khuyết danh)
Bà là con thứ hai của đức Anh Tông. Tiểu sử không rõ. Bà hạ giá lấy ông Tài
Quận công (không biết rõ họ).
7 5.3.3.3B.
Nguyễn Phúc Ngọc Nghiễm
Bà húy là Nguyễn Phúc Ngọc Nghiễm, con gaí thứ ba của đức Anh Tông. Tiểu sử
không rõ. Bà hạ giá lấy ông Chưởng dinh Trương Phúc Phan.
Bà mất năm Quí mùi (1703), được phong tặng là Tống sơn Quận công Thục Phu Nhân,
mộ tại làng Định môn.
7 5.3.3.4B.
Nguyễn Phúc Ngọc Niệu
Bà húy là Nguyễn Phúc Ngọc Niệu, con gaí thứ tư của đức Anh Tông. Tiểu sử không
rõ.
(1) Ca dao còn truyền đến bây giờ:
" - Yêu em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang !
- Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ Nội tán cốm nghiêm."
|