

Trừng Quốc Công 澄 國 公
Húy NGUYỄN VĂN LỰU 阮文溜(澑)
(?-?)
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP.
Ngài húy là Nguyễn Văn Lựu (cũng đọc là Lưu) con của Phó
Quốc Công Nguyễn Như Trác ,mẹ ngài họ Mai. Lai lịch của không rõến
Ngài thuở bé hiếu học, tám tuổi đã biết làm
văn, 15 tuổi thì võ nghệ tinh thông.
Triều Hiến tông nhà Lê (1497 -1504), ngài giữ chức Kinh Lược
sứ Đà Giang, đến khi Uy Mục (1504-1509) vô đạo nên ngài về Tây Kinh giúp Lê
Oanh (tức vua Lê Tương Dực sau này) khởi binh ở Thanh Hoa, mưu việc giữ yên xã
tắc.
Năm
1516 biến loạn nổi lên khắp nơi, giặc Trần Cao chiếm
lấy Đông Đô. Ngài phải đem quân từ Thanh Hoa ra,
chiếm lại Đông Đô rồi rước vua Tương Dực (1509-1516) về.
Ngài được phong làm Thái Phó Trừng Quốc
Công.
Ngài mất ngày mồng 4 tháng 8 âm lịch (không rõ năm mất), thụy là Chơn Tâm.
- LĂNG MỘ VÀ CÁC NƠI THỜ TỰ
Mộ ngài táng ở làng Bái Hương
Năm Quý hợi (1803), vua Gia Long cho dựng miếu ở làng Gia Miêu ngoại
trang, Tống Sơn (Nay là thôn Gia Miêu, Hà Long, Hà Trung, Thanh
Hóa), trong thành Triệu Tường phía tả Nguyên Miếu, gọi là miếu Trừng Quốc Công
để thờ ngài.
- GIA ĐÌNH
Các vị phu nhân
1. (khuyết
danh)
Chính phu nhân
Bà họ Mai, tiểu sử không rõ.
Bà mất ngày 20 tháng 9 âm lịch
(không rõ năm ), thụy là Từ Đức. Mộ táng ở làng Bái Hương.
Con trai và con gái
Ngài có 2 người con trai; Con gái không rõ.
1.
Nguyễn Kim
2.
Nguyễn Tôn Thái
Anh
chị em: Không rõ
Theo phả Họ Nguyễn Gia Miêu
+ Đời thứ Tư: TRỪNG QUỐC CÔNG húy LƯU, con cả Phó Quốc công, sinh 2 con, cả là Chiêu Huân Tĩnh công, con thứ là Tông Thái.
Từ khi nhỏ cụ đã ham học, năm 8 tuổi đã viết được văn, năm 15 tuổi võ nghệ giỏi giang. Đến thời vua Lê Hiến Tông vì con nhà gia thế, cụ được tuyển chọn vào Điển binh, giữ chức Đà Giang Kinh lược sứ. Sau cùng đảng tộc khởi nghĩa ở Thanh Hóa, tiến đánh thành Đông Đô thắng trận, đem quân đi đón vua Lê Tương Dực về Kinh đô, cụ được phong Thái bảo Tả tướng công, được ban tước Hầu. Sau lại được tấn phong Vương tước. Khi mất ban tên thụy là Chân Tâm. Giỗ cụ ngày 4 tháng 8. Phu nhân là người họ Mai, thụy là Từ Đức, giỗ ngày 20 tháng 9. Mộ táng tại Bái Hương.
Theo Phả Gia Miêu (Bản dịch). Bản gốc của chi Nhất Nguyễn Đức Trung, làng Mậu Thịnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.
|