

Tả Đô Đốc 左 都 督
Húy NGUYỄN PHỤNG (阮 奉)
(?_1150)
THÂN THẾ VÀ SỰ
NGHIỆP.
Tả Đô Đốc húy
là Nguyễn Phụng, con trưởng của Tả Tướng Quốc Nguyễn Viễn.
Ngài làm quan
chức Tả Đô Đốc dưới triều vua Lý Anh Tông (1138 - 1175). Năm Ất sửu (1145) ngài
dâng lên vua con rùa mắt có 6 ngươi, ức có 4 chữ "Vương dĩ công pháp"
(Vua theo việc công).
Về sau, thân vì
liên quan đến việc chống Đỗ Anh Vũ mà ngài bị sát hại.
Đỗ Anh Vũ tư
thông với Thái hậu (họ Lê) lúc bấy giờ đang cầm quyền nhíp chính. Đỗ được quyết
đoán mọi việc, tự do ra vào cung cấm, khinh rẻ đình thần nên các quan trong
triều là Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc đều lo việc mưu trừ Đỗ Anh Vũ. Việc
không thành nên Vũ Đái cùng 20 người liên can đều bị hại. Theo tài liệu các gia
phả, Nguyễn Phụng, Nguyễn Quốc và Nguyễn Dương đều bị hại trong dịp này.
Ngài mất vào
năm Canh Ngọ (1150). Như vậy, dưới triều Lý Anh Tông, họ Nguyễn có 3 người làm
quan to đều bị giết hại.
Các mục khác có
liên quan đến ngài như lăng mộ, gia đình đều không rõ.
Dựa vào các gia
phả xưa của các chi họ Nguyễn ở miền Bắc (ghi chép khá giống nhau) và sử liệu,
chúng ta có thể lập phả từ đức Thủy Tổ Nguyễn đến ngài Nguyễn Phụng như sau:
|
I. Nguyễn
Bặc (924-979)
|
|
|
II. Nguyễn Đê
|
Nguyễn Đạt
|
Nhánh (1) Nguyễn Quang
Lợi
|
III. Nhánh
(2) Nguyễn Viễn (? -?)
|
Nhánh (3) Nguyễn Phúc
Lịch
|
Nguyễn Nghĩa
|
IV. Nguyễn Phụng (? -
1150)
|
Nguyễn Dương (? - 1148)
|
Nguyễn Quốc (? - 1158)
|
V. Nguyễn Nộn
(? - 1229)
|
.........................
|
|
|
Nguyễn Thuyên (? -
1282)
|
Nhánh (2) là
nhánh truyền xuống dòng họ Nguyễn Phúc. Để có thể tính toán phỏng chừng thời
đại mà các ngài đang sống, chúng ta có thể dựa vào những sự kiện lịch sử xác
thực như vua Lý Thái Tổ lên ngôi, việc mưu giết Đỗ Anh Vũ không thành v.v...
năm sinh và năm mất của các vị có danh trong lịch sử. Nhìn vào phả đồ, chúng ta
có những nhận xét sau:
Đức Thủy Tổ làm
quan thời Đinh Tiên Hoàng, ngài Nguyễn Đê làm quan thời Lê Long Đỉnh chuyển
sang Lý Thái Tổ, sự kiện lịch sử và niên kỷ phù hợp có thế thứ (cha --->
con). Truyền xuống các đời sau, từ đức Thủy Tổ đến ngài Nguyễn Phụng, hai năm
mất cách nhau 170 năm mà chỉ cách nhau 3 khoảng thế hệ là quá ít: Ngài Nguyễn
Đê làm Hữu Thân Vệ năm 1009 (Năm Lý Công Uẩn lên ngôi), giả thử ngài sinh năm
955 lúc Thủy Tổ 32 tuổi, thì lúc đó ngài 54 tuổi được xem là phù hợp. Bây giờ,
giả thử các ngài đều đến 40 tuổi mới sinh con thì ngài Nguyễn Viễn sẽ sinh năm
995 và ngài Nguyễn Phụng sinh năm 1035. Ngài Nguyễn Phụng mất năm 1150
(năm chính xác đúng với sự kiện lịch sử Đỗ Anh Vũ) là ngài thọ 115 tuổi, đều
này vô lý.
Như vậy, nếu
ngài Nguyễn Viễn là con ngài Nguyễn Đê thì phải cách 2 hoặc 3 đời mới đến ngài
Nguyễn Phụng. Còn nếu ngài Nguyễn Viễn đúng là phụ thân của ngài Nguyễn Phụng
thì ngài Nguyễn Viễn phải cách ngài Nguyễn Đê 2 hoặc 3 đời. Trường hợp ngài
Nguyễn Phụng và ngài Nguyễn Nộn cũng tương tự như vậy.
Chúng ta có thể
kết luận là các gia phả xưa của các chi họ Nguyễn, khi chép thế thứ các đời 1,
2, 3, 4 v.v... có lẽ chỉ chép tên các ngài có danh trong lịch sử chứ không phải
theo thứ tự (cha --->con) hoặc là việc sao chép có bỏ sót một số đời do các
lần gia biến: năm 979 đức Thủy tổ bị hại, các năm 1150 - 1158 ba ngài Nguyễn
Dương, Nguyễn Phụng, Nguyễn Quốc bi hại.
Vì vậy, khi chép phần "Thủy Tổ
Phả" chúng tôi không gọi đời thứ 1, đời thứ 2, v.v...đòi hỏi sự kế tục từ
đời này sang đời khác mà còn gọi Thủy Tổ, đệ nhất tổ, đệ nhị tổ v.v...có nghĩa
là ghi chép các vị tổ thời xa xưa của dòng họ Nguyễn, không đòi hỏi các vị này
nối tiếp nhau theo đời.
(Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả xuất bản 1995)



|