Ngày 21, tháng Giêng, năm Bảo-Đại thứ 18
(Le 25 Février 1943)
Phụng Châu Phê
"Chuan Y"
B. D. Khâm thử
|
KÍNH TÂU:
|
Ngày 1er Septembre 1942, chúng tôi đã có dâng lên HOÀNG-Đế Ngự Lãm quyền “CONSTITUTION DE LA FAMILLE IMPÉRIALE D'ANNAM" của chúng tôi soạn và đã được HOÀNG-ĐẾ Chuẩn cho ban bố. Nhưng chúng tôi lại được HOÀNG-ĐẾ Diện Sắc rằng nên dịch quyển sách ấy ra Quốc Ngữ cho tiện phổ thông.
Nay chúng tôi tuân soạn quyền “HOÀNG TỘC LƯỢC BIỂN” này, nội dung cũng giống như quyền "CONSTITUTION DE LA FAMILLE IMPÉRIALE D'ANNAM” mục đích để cho trong Hoàng Tộc ai xem cũng có thể hiểu ngay được. Chúng tôi lại nhân dịp này xin thêm vào cách đặt tên của Hệ Nhứt Chánh và thể thứ tập tước đề được đầy đủ hơn.
Vậy kính dâng lên HOÀNG ĐẾ Ngự Lãm đề có được phép ban bố cho trong Hoàng Tộc xem.
Nay kính tâu, Kiêm Nhiếp Tôn Nhơn Phủ Đại Thần: Thần TÔN-THẤT CỒN,
HOÀNG TỘC LƯỢC BIÊN
NGUYÊN QUÁN
Bồn Triều quán ở làng Gia-Miêu Ngoại-Trang, tổng Thượng Bạn, huyện Tổng-Sơn, phủ Hà-Trung, tỉnh Thanh- Hóa. Đến Triều vua Gia-Long (1803), chữ Gia-Miêu Ngoại-Trang đổi thành Quí-Hương, và Tống-Sơn đổi thành Quí- Huyện.
Ngày trước, Triều Nguyễn chúng ta nguyên là họ NGUYỄN VĂN. Xem như ngài Trừng Quốc Công, thân sinh ra đức Triệu-Tổ Tỉnh Hoàng-Đế (Nguyễn-Kim), húy là Nguyễn-văn-Lưu thì đủ rõ.
Đến triều vua Minh-Mạng (1823) lại phân biệt ra Tôn- Thất NGUYỄN-PHƯỚC và Công Tánh NGUYỄN HỰU. Tôn-Thất Nguyễn-Phước là những người đã đi theo đức Nguyễn-Hoàng trong lúc ngài vào trấn thủ ở phương Nam. Còn những kẻ ở lại ngoài Bắc đều lấy họ Công-Tánh Nguyễn-Hựu. Hiện bây giờ người ta chỉ để hoặc Tôn Thất hoặc Nguyễn Hựu mà thôi. Ví dụ: Tôn thất-Mỗ, Nguyễn-hữu-mỗ 尊 室 某.
Cách lựa tên của các vị Chúa và các vị Vua
Tên các vị vua Tiền Triều đều dùng bộ Thủy (水), từ đời đức Thế-Tôn-Hiếu-Võ Hoàng-Đế dùng cả bộ Nhật (日) và bộ thủy (水), và triều Gia-Long trở về sau mới chuyên dùng bộ Nhật (日).
Năm 1823, vua Minh-Mạng có lựa sẵn hai mươi chữ (toàn bộ Nhật) để đặt tên cho các vị vua kế thống sau này,
Ngài lại làm một bài thơ “Ngự Chế Mạng Danh Thi” gồm có 20 bộ, các triều vua sau cứ noi theo thế thứ mà đặt tên các Hoàng-Tử:
Ngự Chế Mạng Danh Thi
MIÊN
|
NHƠN
|
KỲ
|
SƠN
|
NGỌC
|
宀
|
亻
|
示
|
山
|
玉
|
PHỤ
|
NHƠN
|
NGÔN
|
TÀI
|
HÒA
|
阜
|
亻
|
言
|
才
|
禾
|
BỐI
|
LỰC
|
TÀI
|
NGÔN
|
TÂM
|
貝
|
力
|
才
|
言
|
心
|
NGỌC
|
THẠCH
|
HỎA
|
HÒA
|
TIỂU
|
玉
|
石
|
火
|
禾
|
小
|
Tên các vị Hoàng Tử con vua Minh-Mạng đều dùng bộ Miên (宀), còn vua Thiệu-Trị bộ Nhơn (亻), đến đức Đông Cung Hoàng Thái Tử Bảo-Long là bộ Phụ (阜) bộ thứ sáu của bài ấy.
Cách đặt tên và chữ lót trong các Hệ Chánh
Các nhánh của các Hoàng Tử anh em cùng đức Minh- Mạng đều theo mười bài PHIÊN HỆ THI mà đặt chữ lót và đặt tên theo lối “Ngũ-Hành Tương-Sanh” (THỔ, KIM, THỦY, MỘC, HỎA). Bắt đầu từ bộ Thổ đi lần xuống đến bộ Hỏa, lại trở lên bộ Thổ.
Đức Gia-Long sanh hạ được 13 vị Hoàng-Tử, trừ ba vị táo thương, còn mười vị, mỗi vị đều có một bài thơ riêng gọi là PHIÊN-HỆ-THI.
MƯỜI BÀI PHIÊN - HỆ - THI:
I. Ngài Tăng-Duệ Hoàng Thái Tử (Hoàng trưởng-tử của Đức Gia-Long)
MỸ
|
DUỆ
|
ANH
|
CƯỜNG
|
TRÁNG
|
美
|
麗
|
英
|
彊
|
壯
|
LIÊN
|
HUY
|
PHÁT
|
BỘI
|
HƯƠNG
|
聯
|
輝
|
發
|
佩
|
香
|
LỊNH
|
NGHI
|
HÀM
|
TỐN
|
THUẬN
|
令
|
儀
|
崇
|
巽
|
順
|
VỶ
|
VỌNG
|
BIỂU
|
KHÔN
|
QUANG
|
偉
|
望
|
表
|
謙
|
光
|
II.- Ngài Kiến-An-Vương (Hoàng đệ-ngũ tử của Đức Gia-Long)
LƯƠNG
|
KIẾN
|
NINH
|
HÒA
|
THUẬT
|
良
|
敬
|
安
|
仁
|
術
|
DU
|
HÀNH
|
SUẤT
|
NGHĨA
|
PHƯƠNG
|
攸
|
行
|
率
|
義
|
方
|
DƯỠNG
|
DI
|
TƯƠNG
|
THỨC
|
HẢO
|
融
|
怡
|
相
|
式
|
好
|
CAO
|
TÚC
|
THỂ
|
VI
|
TƯỜNG
|
高
|
宿
|
彩
|
為
|
章
|
III.— Ngài Định Viễn Quận Vương (Hoàng đệ lục tử của Đức Gia-Long
TỊNH
|
HOÀI
|
CHIÊM
|
VIỄN
|
ÁI
|
靖
|
懷
|
瞻
|
遠
|
愛
|
CANH
|
NGƯỠNG
|
MẬU
|
THANH
|
KHA
|
景
|
仰
|
茂
|
聲
|
華
|
NGHIỄM
|
KHÁC
|
DO
|
TRUNG
|
ĐẠT
|
儼
|
恪
|
由
|
衷
|
達
|
LIÊN
|
TRUNG
|
TẬP
|
CÁT
|
ĐA
|
連
|
忠
|
集
|
吉
|
多
|
IV.− Ngài Diên Khánh Vương (Hoàng đệ thất tử của Đức Gia-Long)
DIÊN
|
HỘI
|
PHONG
|
HANH
|
HIỆP
|
延
|
會
|
豐
|
亨
|
合
|
TRÙNG
|
PHÙNG
|
TUẤN
|
LÃNG
|
NGHI
|
元
|
逢
|
泰
|
朗
|
宜
|
HẬU
|
LƯU
|
THÀNH
|
TÚ
|
DIỆU
|
厚
|
留
|
成
|
秀
|
妙
|
DIỄN
|
KHÁNH
|
THÍCH
|
PHƯƠNG
|
HUY
|
|